Nghệ thuật sống này đôi khi bị phá vỡ, vì mỗi cá nhân không biết hòa hợp, chỉ biết có mình, không chú tâm đến người khác. Những gì chúng ta tạo ra ở chung quanh, phản ảnh những gì ở bên trong chúng ta.
Khi hợp ca, chúng ta phải giữ đúng nhịp, hòa hợp với nhau. Chúng ta phải chú tâm đến thời điểm, đến các bạn trong ban hợp ca, nếu không tất cả sẽ lỗi nhịp, sai lời. Khi chúng ta sống chung với nhau cũng thế, ta phải để ý, quan tâm đến người khác, phải ý thức về sự chung sống để tạo nên một môi trường sống chan hòa. Đó là nền tảng cho nghệ thuật sống hòa hợp.
Nghệ thuật sống này đôi khi bị phá vỡ, vì mỗi cá nhân không biết hòa hợp, chỉ biết có mình, không chú tâm đến người khác. Những gì chúng ta tạo ra ở chung quanh, phản ảnh những gì ở bên trong chúng ta.
Vì thế, bước đầu tiên để tạo lập sự hòa hợp là cần phải bắt đầu từ trong chính ta. Không cần phải có một môi trường lý tưởng, chúng ta có thể làm điều đó ở bất cứ nơi nào: khi đang ngồi trong thiền đường, đang chèo thuyền, đang nấu ăn, đang đọc sách hay làm việc trong vườn… Trạng thái cân bằng hòa hợp trong ta, tùy thuộc vào mức độ an nhiên, tự tại trong tâm ta, nếu không, chúng chỉ có rối loạn.
Sự an nhiên, tự tại không thể tùy thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài, vì chúng sẽ không bao giờ hoàn toàn theo ý muốn của ta. Thí du,ê trong những tháng mùa khô, ai cũng than phiền phải ra công tưới cây. Ngược lại, mùa mưa thì ta than phiền ướt át, đường xá lầy lội. Làm sao ta tìm được nơi hoàn toàn như ý muốn trên thế giới này?
Nếu chúng ta nhìn ra ngoài để tìm sự an nhiên, tự tại cho tâm hồn, thì chỉ uổng công thôi. Chúng ta cần phải quay vào bên trong mới mong tìm được những điều có thể mang đến cho ta sự an nhiên tự tại. Một trong những điều ấy là sự độc lập - không phải là độc lập về vật chất, vì điều này có thể gây một số khó khăn cho ta, mà là một sự độc lập về tinh thần, không phụ thuộc vào những khen chê của người khác. Điều đó có nghĩa là, khi ta biết mình đã cố hết sức để làm gì đó, nhưng nếu người khác không vừa ý, ta cũng đành chịu thôi. Đâu phải tất cả mọi người đều tán thành những việc làm của Đức Phật, nhưng Đức Phật chỉ nói rằng: "Tôi không tranh cãi với ai. Đó là người ta muốn tranh cãi với tôi". Đức Phật chấp nhận việc người ta chống báng Ngài cũng như các giáo lý của Ngài. Đức Phật hoàn toàn hiểu là không thể bắt tất cả mọi người đều đồng ý theo mình.
Người có tính độc lập cũng không đi tìm sự che chở, ngợi khen của người khác. Không phải tất cả những cố gắng của ta đều mang lại sự thành công. Chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận điều đó. Không thể mong đợi ai chở che. Nếu đôi khi ta không thể thực hiện điều gì đó đúng như ý ta mong đợi, thì cũng không hề hấn gì, không có lý do gì phải sầu khổ cho những việc như thế.
Muốn độc lập về tình cảm (tinh thần) đòi hỏi ta phải có một trái tim thương yêu. Trái lại, nếu chúng ta đi tìm sự thương yêu thì phải tùy thuộc vào tình cảm người khác, và ta dễ bị thất vọng vì không toại nguyện hoặc người khác không đáp ứng đủ như lòng ta mong muốn. Mà dầu người khác có ban tặng ta đầy đủ tình thương, họ cũng không thể thõa mản hết những đòi hỏi của ta. Điều thành công là chúng ta nên yêu thương người khác. Làm được điều đó sẽ khiến ta độc lập trong tình cảm và an nhiên tự tại. Vì khi hết lòng yêu thương tha nhân, ta không đòi hỏi họ phải đáp trả. Tình thương yêu thật sự không phụ thuộc vào người khác mà chỉ là bản tính của con tim.
Sự an nhiên, tự tại tùy thuộc vào việc hình thành những cánh đồng thanh bình trong trái tim ta - một cánh đồng rộng mở, đầy hoa trái, đầy thương yêu, độc lập về tinh thần và biết chấp nhận mình. Việc đó đòi hỏi ta phải có trái tim rộng lượng. Thông thường khi có ai đòi hỏi ở ta một điều gì đó, tự ngã của ta bị đe dọa, và bao nỗi lo sợ bỗng phát sinh. Điều này rất rõ ràng trong lĩnh vực của cải vật chất, vì ta lo sợ phải mất của cải. Ngược lại nếu ta ban tặng tình thương, lời động viên, ta sẽ không cảm thấy an vui. Biết thương yêu người là cách duy nhất khiến ta có thể sống tự tại với chính mình.
Đôi khi thân ta có bịnh. Đó cũng là điều ta không nên quá bận tâm. "Có thân thì có bịnh", Đức Phật luôn nhắc nhở ta điều đó. Nhưng Ngài đâu có nói ta phải khổ sở, thất vọng vì nó. Rồi cũng có lúc tâm ta phát khởi lòng tham ái, và ta cũng không thể ngăn cản điều đó, nhưng ta không cần phải chạy theo chúng. Nếu chúng ta cứ phải khổ sở vì các nghiệp của thân tâm, thì ta khó có được sự an nhiên, tự tại. Vậy biết tìm sự an vui ở đâu? Dĩ nhiên không phải là ở các ngôi nhà đồ sộ, ở khung cảnh thiên nhiên hay ở người khác. Chúng chỉ có một nơi để an trú: đó chính là trong tim ta. Nơi đó chứa đựng sự hiểu biết - quà tặng của tình thương và sự tán thán - tạo nên những cánh đồng hòa hợp chung quanh ta, đó cũng chính là nơi rèn luyện nên ta.
Đó là trường huấn luyện cách sống hòa hợp, vì chúng ta có thể tìm thấy chính mình nơi người khác. Chúng ta cần nhận rõ cái bóng của chính mình nơi người khác, để nhận rõ bản thân hơn. Khi có sự xung đột với người khác, đó cũng chính là tấm gương phản chiếu chính ta. Nếu nội tâm ta an nhiên tự tại, ta sẽ không thấy khó khăn với người. Tấm gương phản chiếu không thể dối gạt ai. Một trong những bài giảng của Đức Phật có kể về ba vị tu sĩ đã sống với nhau chan hòa như nước với sữa. Ý kiến của họ, tâm tình của họ hoàn toàn phù hợp với nhau. Sở dĩ có sự hòa hợp hoàn toàn đó là vì không ai muốn cái gì theo ý riêng của họ. Điều đó cũng chỉ rõ cho ta thấy, sống hòa hợp, vui vẻ là chuyện có thể làm được, nếu không, ta tiếp tục cho rằng thái độ tiêu cực của chúng ta là có thể chấp nhận được.
Hòa hợp có thể hiểu theo nhiều nghĩa, nhưng tựu trung, đó là cốt lõi căn bản để sống yên vui, hạnh phúc. Đôi khi chúng ta bị nghiệp lực dẫn dắt, điều này cũng dễ hiểu thôi, nhưng sau đó, khi chúng ta đã thấy được sự khờ dại của mình, ta cần phải chấm dứt. Tất cả mọi loài chúng sinh đều muốn đưọc an ổn, hạnh phúc, không chỉ riêng loài người. Chúng ta thiền định để được hạnh phúc hơn, nhưng ta không thể ngồi thiền suốt cả ngày. Đôi khi, với một số người, thiền định lại khơi mở những đau khổ, phiền não mà ta đã chôn giấu, không muốn nghĩ đến. Điều đó khiến ta có cảm tưởng việc hành thiền còn mang đến nhiều khổ đau hơn trước đó. Thật ra không phải vậy, mà là vì nhờ thiền định ta có thể nhìn thấy khổ đau của mình một cách trực tiếp hơn, để có thể chấp nhận, đối mặt với chúng. Điều đó cũng dễ khiến ta sinh tâm từ bi đối với mọi người, vì ta đã nhận thấy rằng thân phận con người chứa đầy những khổ đau. Có nhiều giai đoạn trong quá trình phát triển tâm linh, lúc bắt đầu, chúng ta giống như những đứa trẻ con. Và sau đó, dù ta đang ở lớp năm, sáu hay bảy, tất cả chúng ta đều là những đứa trẻ đang lớn.
Cũng có người chấp nhận nghiệp của mình dễ hơn người khác, nhưng cũng có người chạy trốn nghiệp, và chạy trốn nghiệp không phải là cách trả nghiệp khôn ngoan, bởi dù chúng ta chạy trốn ở đâu, nghiệp cũng sẽ đuổi theo. Vì nghiệp không phải ở một nơi chốn hay hoàn cảnh nào đó mà ngự trị trong trái tim ta, nó theo ta lên trời, xuống biển, ta ở đâu, nó có đó, ở bất cứ nơi nào, nên trốn tránh nghiệp là điều không thể thực hiện được.
Còn một cách trả nghiệp không khéo nữa, mà tất cả chúng ta đều đã từng thử qua, là trách cứ, đổ thừa cho người khác, cho hoàn cảnh, sự việc… Hành động như thế tức là ta đã không nhận trách nhiệm cho chính hành động, cách sống của mình.
Cách trả nghiệp không khéo tiếp theo của hầu hết chúng ta là trở nên chán nản, đau khổ vì nghiệp quả của mình. Sau đó là buông xuôi tất cả để chờ đợi một sự may mắn, một niềm vui nào đó đến với ta, để giúp ta thoát ra sự khổ đau - như là một món quà, một phần thưởng hay một lời khen ngợi nào đó - và rồi ta lại thấy yêu đời trở lại.
Tất cả những cách trả nghiệp như trên khiến chúng ta như thể ở trên đầu ngọn giáo của hy vọng và thất vọng. Cách đối phó với nghiệp khôn khéo nhất là hãy coi đó như là một kinh nghiệm, và hãy nhớ rằng Đức Phật rất hiểu nỗi khổ đau của chúng sinh nên đã dạy khổ đau là sự thật đầu tiên trong Tứ đế.
Sự thật thứ hai - nguyên nhân của khổ đau - là ái dục: muốn điều ta không có hay muốn dứt bỏ cái ta đang có. Ngoài ra, không còn gì có thể khiến ta khổ đau. Nếu ta nhận ra được sự khổ đau trong ta, nhưng không để nó tác động đến ta, mà chấp nhận nó như là một thực trạng, một phần của cuộc sống, rồi từ đó có thể nhận ra được nguồn gốc của nó chính là ở bên trong ta, lúc đó ta có thể nói: 'Đúng rồi, đó chính là nó'. Bằng những cách đó, ta có thể chứng nghiệm được sự thật thứ hai trong Tứ Diệu đế, và như thế có nghĩa là sự thật thứ ba và thứ tư không thể sai đưọc. Sự thật thứ ba là ta có thể đoạn trừ mọi khổ đau, để đạt tới Niết bàn. Và sự thực thứ tư là Đạo đế, con đường đưa ta đến sự giải thoát hoàn toàn.
Đau khổ sẽ tiếp tục hiện hữu, không bao giờ chấm dứt cho đến khi ta có thể diệt trừ được mọi ái dục, chứng đắc A-la-hán, hoàn toàn Giác Ngộ. Tại sao ta lại ngạc nhiên khi đau khổ phát sinh? Nếu đau khổ không phát sinh, ta ngạc nhiên mới đúng chứ. Nếu còn ngạc nhiên, là ta đã hy vọng có thể tìm được sự hoàn thiện, hoàn mỹ trên thế giới này.
Để tâm được an nhiên tự tại, ta phải biết chấp nhận khổ đau như một phần không thể tách rời của kiếp con người. Nếu ta không biết chấp nhận, thì sự chống đối, phản kháng càng khiến ta thêm đau khổ, rồi ta phải tìm cách trốn tránh. Trốn chạy khổ đau có nghĩa là cố gắng thay đổi người khác, thay đổi hoàn cảnh, công việc làm, hay là bất cứ thứ gì mà ta nghĩ là nguyên nhân khiến ta đau khổ. Hành động như thế không thể nào giúp ta diệt trừ được khổ đau. Chỉ có một cách duy nhất đó là buông bỏ ái dục - đó là những điều Đức Phật đã dạy.
Khi đau khổ phát sinh, ta có thể thấy rõ là đã có một ao ước, ham muốn nào đó không thành hiện thực. Tìm cho ra ái dục đó, rồi quyết buông bỏ nó đi, vì không có cách nào khác để thoát khỏi khổ đau. Chúng ta càng buông bỏ được nhiều ái dục, chúng ta càng dễ tìm được niềm vui ở nội tâm, vì ái dục phá vỡ sự tự tại trong nội tâm. Hãy tưởng tượng chúng ta đang hát một bài đồng ca, và bỗng ai đó, muốn vượt trội lên tất cả, át cả giọng hát của mọi người, và người khác nữa lại muốn hát với nhịp nhanh hơn. Rõ ràng là sẽ không thể có sự hòa hợp nào trong đó.
Sự tự tại trong tâm hồn khiến ta dễ độc lập trong tình cảm, khiến ta muốn bố thí, muốn tán thán người khác hơn là khao khát kiếm tìm nó cho cá nhân mình. Chúng ta cần phải nhận biết rõ rằng tất cả mọi khổ đau đều do tham ái, tự ngã.
Chính vì sự bám víu vào ngã mà ta thấy mọi thứ khác đều là thứ yếu, và tâm ta luôn nhớ nghĩ về 'tôi', về ‘cái của tôi', và vì tất cả mọi người đều suy nghĩ như thế, mà xã hội trở nên bất an, vị kỷ. Chỉ có chúng ta mới có thể tìm được sự tự tại trong chính nội tâm mình, không ai giúp ta tìm ra nó cả. Đức Phật đã chỉ cho ta con đường đó bằng các hành động từ bi, thiền định và quán chiếu. Nên mục đích của chúng ta là cố gắng thấm nhuần được tính vô thường, đau khổ và vô ngã - hiểu được vạn pháp đều thay đổi không ngừng, hiểu rằng cuộc đời luôn gắn bó với khổ đau, và biết được ngã chính là nguyên nhân khiến cho sự hòa hợp, hạnh phúc bị xáo trộn.
Hòa hợp là sống an vui, hòa đồng với người khác, nhưng cũng cần phải hòa hợp trong chính nội tâm mình. Và khi ta nhận thức được rằng trong ta có đầy đủ các căn tánh thiện, không cần phải tìm kiếm ở bên ngoài thì sự an nhiên, hạnh phúc sẽ tràn đầy trong trái tim ta
(Diệu Liên trích dịch từ Be An Island, NXB Wisdom Publications)
http://www.daophatngaynay.com/vn/cuoc-song/6352-Nghe-thuat-song-hoa-hop.html
0 comments