Lời nói đầu:
A Di Đà Phật hàng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày: 19/02, 19/06 và 19/09 đều theo âm lịch.
Ngày 19/02 là vía Quán thế Âm Đản Sanh.
Ngày 19/06 là vía Quán thế Âm Thành Đạo.
Ngày 19/09 là vía Quán thế Âm Xuất Gia.
Ngày 19-09, tưởng niệm ngày vía Quán Thế Âm Bồ Tát. Trí Giải xin chia sẻ vài điều về công năng diệu dụng lợi ích của Chú Đại Bi chia sẻ đến quý Phật tử và bạn đọc gần xa
Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni của Phật Quán Thế Âm. Gọi tắt là Chú Đai Bi. Chú Đại Bi có thảy là 84 câu, 415 chữ.
Định nghĩa danh hiệu Bồ Tát
-Bồ Tát: Nói cho đủ là: “Bồ Đề Tát Đỏa” tiếng Phạn: Bodhisattva dịch nghĩa là “Giác hữu tình,” Bodhi=Giác, sattva=hữu tình. Từ “Giác” nghĩa là Giác ngộ, giác tri, giác kiến…Hữu tình nghĩa là các loài có tình thức do duyên hợp lại mà thành, “giác hữu tình” trên cầu Phật đạo để tự giác, dưới hóa độ chúng sinh để giác tha. Lòng đại từ đại bi của Bồ tát phát tâm nguyện cứu độ chúng sinh thoát khổ đau, đó là ý nghĩa danh từ Bồ Tát
Giải thích về Chú Đại Bi.
Trong tất cả Kinh điển và Mật Chú của Phật giáo đều chia làm hai phần: Phần hiển (Phần Kinh) và Phần mật (phần câu Chú).
Phần hiển: Là hiển bày ra ý nghĩa và chân lý trong Kinh để hành giả tụng niệm, hoặc nghiên cứu theo đó áp dụng tu tập, thì gọi là: “Tụng Kinh minh Phật chi lý,” để hiểu biết công năng của câu kinh và câu chú gọi là phần hiển. Ví dụ: Kinh Bát Nhã phần hiển từ “Quán tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã cho đến câu…..Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết”: phần mật là phần câu chú: “Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha”
Kinh Lăng Nghiêm: phần tựa là từ “Diệu Trạm Tổng….cho đến hết lời tựa là phần hiển còn phần mật là 5 đệ Lăng Nghiêm
Phần hiển: Chú Đại Bi “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi” câu Kinh này là phần hiển giải thích công năng và diệu dụng của 84 câu Chú ở sau, để giúp hành giả hiểu mà hành trì cho đúng mới có hiệu nghiệm.
Còn phần mật của Chú Đại Bi là phần “câu Chú” từ câu chú “tâm đà la ni cho đến câu 84. Ta bà ha” phần câu Chú là phần ẩn nghĩa chỉ là phạn ngữ chỉ có chư Phật mới thấu hiểu còn hàng phàm phu không hiểu ý nghĩa, chỉ biết công năng và lợi ích để hành trì.
Giải thích phần hiển: “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi”
Câu Kinh này là phần hiển muốn nói về Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân thành Phật Chuẩn Đề có nghìn tay, nghìn mắt, trong mỗi tay có một con mắt và mỗi tay cầm mỗi khí cụ khác nhau. Vì thế trong Phát Bồ Đề Tâm Luận của Bồ tát Thiên thân nói rằng: “Bồ tát phát tâm lấy lòng từ bi làm đầu. Lòng đại từ của bồ tát vô lượng vô biên nên sự phát tâm cũng vô lượng vô biên mênh mông như chúng sanh giới. Như hư không giới, không chỗ nào là không cùng khắp, sự phát tâm của Bồ Tát cũng như thế, vô lượng vô biên không có cùng tận” [1]
Trong Kinh Duy Ma Cật đức Phật dạy rằng: “Người có trí không nên so sánh với các hàng Bồ Tát. Biển sâu còn có thể dò được, chớ thiền định, trí tuệ, tổng trì, biện tài, tất cả công đức của Bồ Tát không thể đo lường được” [2]
Như vậy mỗi bàn tay là biểu trưng cho công hạnh của Bồ tát vào đời độ sinh với lòng Đại từ đại bi. Bởi vì chúng sinh căn cơ không giống nhau, cho nên Ngài Quan Thế Âm hóa hiện ra nghìn tay (tức nghìn muôn hạnh) phương tiện để độ sinh viên mãn, Bồ Tát có tâm đại từ đại bi nhưng cần phải có đại trí tuệ, vì vậy mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt, con mắt là biểu trưng cho trí truệ, một nghìn con mắt biểu trưng cho đại trí tuệ
Nếu hành giả thực hành con đường Bồ Tát hạnh vào đời độ sinh, chỉ có từ bi mà không có trí tuệ, khi gặp chướng duyên dễ bất thối tâm bồ đề, và sự việc hoằng Pháp độ sinh sẽ gặp trở ngại
Ví dụ: Khi chúng ta thực hành Bồ Tát đạo vào đời độ sinh thấy một người nghiện rượu, nghiện thuốc,..không có tiền mua uống nằm than thở kêu rên. Bấy giờ chúng ta động lòng từ bi thương xót lấy tiền ra để bố thí, để giúp họ vượt qua cơn nghiện. Như vậy, chúng ta có từ bi mà thiếu trí tuệ, chúng ta đã giúp những người ấy, vô tình lại tạo thêm khổ đau vì rượu là chất hại người, tai nạn làm mất hạnh phúc gia đình, rượu là nguyên nhân làm mất đi hạt giống trí tuệ, vì thế trong giới thứ năm Sa Di giới cấm uống rượu, đức Phật đã dạy, thà uống nước đồng sôi mà chết còn hơn uống ly rượu. Bởi vì chúng ta uống nước đồng sôi mà chết còn giữ được hạt giống trí tuệ, còn chúng ta uống rượu làm mất đi trí tuệ
Như vậy chúng ta hành Bồ Tát đạo múc đích cứu độ chúng sinh, nhưng ngược lại gây hại đau khổ thêm cho chúng sinh và chúng ta lại vi phạm tinh thần Bồ Tát giới, chẳng những tự mình không uống rượu còn cấm cấm bán rượu: “Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu: Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cánh thức bán rượu nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán, rượu là nhơn duyên sanh tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sanh có trí huệ sáng suốt, mà trái lại đem sự mê say điên đảo cho tất cả chúng sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội.” [3]
Như vậy chúng ta hành Bồ Tát đạo vì lòng từ bi cần phải có trí tuệ thì chúng ta không có gặp chướng ngại (vô = không, ngại = chướng ngại)
“Bồ tát phát tâm bằng cách thân cận thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập thiện căn, lập chí cầu chánh pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ chịu nhẫn nhục được, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng, ưa thích pháp đại thừa, mong cầu được trí huệ Phật. Nếu ai có đầy đủ mười điều nói trên mới có thể phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.” [4]
Bồ Tát phát tâm tu tập Vô thượng Bồ đề lại cần có bốn duyên;
“Một là suy nghĩ đến chư Phật;
Hai là quán các tội lỗi của tự thân;
Ba là thương xót chúng sanh;
Bốn là cầu quả tối thắng, tức quả Phật.”
Nhờ có bốn nhân duyên kia mà tâm bồ đề thêm kiên cố [5]
Trong Đại Trí Độ Luận có nói “Bậc Bồ Tát luôn có tâm dõng mãnh bất thoái ở giữa chúng sinh khởi đại bi tâm thành lập Đại thừa, thực hành đại đạo, thuyết Pháp phá trừ đại tà kiến, đại phiền não, đại ái mạn, đại ngã tâm cho mình và hết thảy chúng sinh” Đó là tâm “Đại Bi” của Bồ Tát thật bao la rộng lớn hạnh nguyện của Ngài vô cùng tận. “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi”
Vì thế trong Phổ Môn phẩm 25 trong Kinh Pháp Hoa:
Phật mới bảo:“Hỡi này nam tử
Có chúng sanh quốc độ xa gần
Muốn cầu thân Phật độ dân
Quán Âm liền hiện Phật thân hộ trì
Cõi muốn được Bích Chi hóa độ
Hiện Bích Chi vì đó giảng Kinh …
… Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ Tát,
Thành tựu phần công đức oai linh
Thần thông hiện các thân hình
Dạo cùng khắp cõi độ sinh thoát nàn”
Bồ Tát hành Bồ tát đạo dùng vô số phương tiện quyền xảo để phù hợp căn cơ của mỗi chúng sinh hóa độ (thiên thủ = nghìn tay chỉ cho phương tiện, hay công hạnh) còn nghìn mắt là chỉ cho Trí tuệ thậm thâm của Bồ Tát để thấu hiểu hết thảy các Pháp, độ tận hết thảy chúng sinh. Nếu còn một chúng sinh đau khổ, Bồ Tát thệ nguyện không thành Vô thượng Bồ đề như Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đã phát nguyện: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề” Có nghĩa là Địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ-đề. Khi đức Phật hỏi ngài Địa Tạng đã bạch Phật rằng: “con ở trong cõi đời xấu ác này độ sanh, nhưng vẫn cảm thấy an lạc như đang an trú trong cảnh giới Niết Bàn.”
Phẩm chất của Bồ Tát:
Tinh thần là Trí tuệ (nghìn mắt),
Sức mạnh là Thiền định,
Sắc thái Đại từ bi (nghìn tay)
Bồ Tát có ba sắc thái này thì hành Bồ Tát đạo đạt đến chỗ “vô ngại”
Khi vị Bồ Tát có đại bi thì cũng đạt được đại trí tuệ (nghìn mắt nằm trong nghìn cánh tay.) Trí tuệ và từ bi là hai diệu tánh của Bồ Tát Quan Thế Âm để độ sanh. Khi Ngài có đầy đủ hai đức Đại bi, và Đại trí thì trên con đường độ sinh tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ viên mãn (vô ngại).
“Tự tại tiêu dao suốt tháng ngày,
Tùy duyên phóng khoáng cõi trần ai,
Rửa sạch lòng trần đầy nhiễm uế
Cuộc đời chi sá bận tâm đâu” [6]
Đó là ý nghĩa: “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi”
Hạnh Nguyện khác nhau của Bồ Tát:
lấy “Hạnh” để hóa độ chúng sinh gọi là “Đại Hạnh” Phổ Hiền Bồ Tát
lấy “Nguyện” để độ sinh như “Đại Nguyện” Địa Tạng Vương Bồ Tát
lấy “Đại Hùng”, “Đại Lực” để làm động cơ thú đẩy độ sinh như “Đại Hùng”, “Đại Lực” Đại Thế Chí Bồ Tát
Lấy “Trí làm yếu chỉ như “Đại Trí” Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Lấy Đại Từ, Đại Bi để hóa độ chúng sinh gọi “Đại Từ” “Đại Bi” Quan Thế Âm Bồ Tát
Hình Tướng khác nhau của Bồ Tát:
Hình tướng xuất gia: Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát
Hình tướng tại gia: Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát. Hạnh nguyện của quý Ngài độ sinh ở trần gian,
Tinh thần nhập thế nên hiện tướng tại gia, để hòa vào thế gian độ sinh vì lòng từ bi. Hành động vị tha ấy trong Đại Thừa gọi là: “Vô Công Dụng Hạnh-Anābhoga) tức là hành động không dụng công không vì mục đích tư lợi, chính vì lòng từ bi trí tuệ như thế giúp cho hàng Bồ Tát có được tâm vô phân biệt. Hàng Bồ Tát tu diệt hết phiền não và đạt đến vô sanh pháp nhẫn, đạt đến vô ngã, không còn chấp vào hình tướng, nên hình tướng xuất gia hay tại gia, có tóc hay không có tóc điều đó không quan trọng (tóc = phiền não)
Riêng Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát vì hạnh nguyện độ chúng sinh ở Địa ngục, ở trong địa ngục không có Tam bảo, Chúng sinh thọ quả báo đau khổ khi nhìn hình tướng Ngài Địa Tạng là hình tướng xuất gia đầu tròn áo vuông, giúp cho phạm nhân khi nhìn Ngài để phát khởi tâm Bồ Đề, giác ngộ nghiệp ác của mình đã tạo và quy hướng Tam bảo, phát lồ sám hối thoát khỏi địa ngục.
Trong Phật giáo mục đích duy nhất: “Duy tuệ thị nghiệp = lấy trí tuệ làm sự nghiệp” Tức là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Đại trí biểu trưng cho sự nghiệp. Nhưng ít Phật tử nhắc đến Ngài Văn Thù Sư Lợi, Ngài Thế Chí, Ngài Phổ Hiền. Bởi vì Phật tử chủ yếu tín ngưỡng Ngài Quan Thế Âm và Ngài Địa Tạng. Bởi vì Đại hạnh, Đại Nguyện, Đại Lực hay Đại Trí cũng đặt trên nền tảng là Đại Bi.
Đại bi là lẽ sống là hạnh nguyện độ sinh, trái tim của Bồ tát đau quằng quại khi nhìn thấy chúng sinh đau khổ biết bao tiếng rên xiết trong địa ngục, trong đêm trường sinh tử. Vì vậy, chư vị Bồ tát hóa thân vào Địa Ngục để độ sinh như ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát vì lòng đại từ, đại bi không ngần ngại (vô ngại)
Hoặc như Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân thành Tiêu Diện vào cảnh giới Ngã quỷ để độ chúng ma mà không có một chút ngần ngại nào cả, cho nên Bồ Tát có 32 ứng hóa thân là để tùy thuận chúng sinh mà hóa độ. Trái tim Bồ Tát luôn tuần hành nhịp nhàng, trong sáng, thanh tịnh không vướng vào “tự ngã,” đạt đến sự vô phân biệt, không có ranh giới, tâm từ bi ấy thể hiện tính bình đẳng giữa mọi người, như mặt trăng không phân biệt quốc gia nào. Nó luôn vận hành liên tục để tỏa sáng trong đêm trường. Đó là ý nghĩa câu Chú Đại Bi: “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi”
Phần Mật: Của Chú Đại Bi
Từ câu: “Tâm đà la ni” cho đến câu 84. “Ta bà ha” là phần ẩn nghĩa, hàng phàm phu không có hiểu được Phần này, chỉ có chư Phật mới hiểu. Như vậy, phần hiển là để chúng ta hiểu nghĩa công dụng lợi ích của Kinh, Chú mà hành trì. Còn phần mật hành trì để tâm chúng ta thanh tịnh và an lạc (vô ngại) niệm Chú Đại Bi là đọc xưng danh hiệu của 84 vị Hộ Pháp Kim Cang Thần hóa thân của ngài Quan Thế Âm Bồ Tát để đối trị tiêu diệt 84 phiền não chướng tư hoặc và lậu hoặc. Tuy thần chú là những lời nói nhiệm mầu, bí mật của chư Phật, chư Bồ Tát ta khó thể lãnh hội được nội dung, ý nghĩa. Nhưng phần hiển là phần giúp hành giả hiểu rõ công năng và lợi ích cho việc hành trì Chú Đại Bi.
Khi hành trì chú Đại Bi để đạt quả vị Vô thượng Bồ đề đòi hỏi hành giả phải: Tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm đạt đến vô niệm, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không, tâm phải cung kính, tâm biết khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không cố chấp, phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Công năng lợi ích hành trì Kinh, Chú:
Ngài Tuyên Hóa dạy rằng: Người trì kinh, chú sẽ được ba nghiệp thanh tịnh, khi ba nghiệp lắng đọng thì trí huệ sinh (nhân định tức huệ) đồng Phật vãng Tây Phương
1. Thân ngồi ngay thẳng trước Phật là thân thanh tịnh
2. Miệng không nói dối, không đùa giỡn là khẩu nghiệp thanh tịnh
3. Ý không tán loạn, không phan duyên đó là ý nghiệp thanh tịnh
“Mỗi niệm chân thành mỗi niệm thông
Tịch lặng cảm ứng tịch lặng trong
Cho đến non cao nước cùng tận
Rong chơi pháp giới khắp Tây Đông”
Niệm Kinh Chú mục đích nhiếp phục tam nghiệp hằng thanh tịnh để trừ được ba ác nghiệp thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp
1. Thân nghiệp gồm ba: (Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm)
2. Khẩu nghiệp có bốn: (Không nói dối, không nói ác khẩu, không nói lưỡi hai chiều, không nói thêu dệt”
3. Ý nghiệp có ba: Tham, sân, si.
Như vậy niệm Kinh, niệm Chú, niệm Phật cũng đều mục đích như nhau để tam nghiệp hằng thanh tịnh. Khi tâm mình thanh tịnh tức tâm bình, tâm bình tạo ra thế giới bình “tướng tự tâm sanh,” mây tan thì trăng tự nhiên hiển bày tỏa sáng.
Khi chúng ta niệm chú một cách nhất tâm thì sẽ đoạn trừ được phiền não.
Kinh chú của Phật, tất cả mọi người có thể trì, nhưng muốn được lợi lạc trong khi tụng Kinh trì Chú người Phật tử cố gắng giữ tam nghiệp thanh, giữ giới dứt các điều ác làm các việc lành mới được công đức tốt đẹp, hành giả có thể áp dụng theo phương cách trì tụng Chú Đại Bi như sau, tùy theo căn cơ mỗi người mà hành trì để có hiệu quả.
Cách trì Chú Đại Bi có nhiều cách:
*Tụng nhanh, lớn tiếng:
Đọc rõ ràng, âm thanh trầm hùng, mục đích khỏi buồn ngủ tránh giải đãi, tránh tâm tán loạn. Nhờ âm thanh trầm hùng đó tạo nên sự mầu nhiệm đánh thức tâm Bồ đề của mình và những người xung quanh.
Cho nên khi tụng Chú Đại Bi trong Đại chúng, bao giờ cái tâm của mình cũng phấn khởi, nghe mầu nhiệm hơn là tụng một mình. Cách tụng này dễ dàng cho những người mới hành trì Chú Đại Bi
*Niệm thầm:
Chữ niệm được ghép hai chữ kim có nghĩa hiện tại, bây giờ. Nó được nằm trên chữ tâm, như vậy chữ niệm là cái gì đó hiện diện nay trên một khoảnh khắc của ý thức Phật giáo gọi là sát na, vì thế niệm thầm còn gọi là: “Duy niệm” tức là niệm không ra tiếng, ngồi niệm bằng cách tư duy quán tưởng nhớ nghĩ từng câu chú ngay lúc đó, cách niệm này rất khó cho những người mới tập niệm, dễ sinh chán nản, buồn ngủ và giải đãi, tâm dễ tán loạn khó hành trì, cách niệm này dành cho những vị hành trì lâu năm
Hai cách niệm trên là còn niệm tướng, còn thấy người niệm và câu Chú Đại Bi để niệm, cách niệm này gọi là phương tiện niệm, nhờ phương tiện niệm để đạt đến trạng thái tâm vô niệm, là xa lìa tất cả tướng, không trụ vào bất kỳ hình tướng nào để tâm thanh tịnh, thì trí tuệ mới hiển bày. Cũng giống như ngón tay chỉ mặt trăng, thấy mặt trăng rồi không cần ngón tay chỉ nữa, tức dùng sự đạt lý, qua sông thì cần chiếc bè để qua, qua rồi chúng ta không nên chấp chiếc bè, vì thế đức Phật dạy “Chư Tỳ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy” (Trung Bộ Kinh 1, Kinh Ví Dụ Con Rắn, trang 305).
*Niệm vô niệm niệm
Đồng nghĩa vô niệm tức là niệm, “vô niệm” có hai ý “vô tướng” và “vô trụ” vì thế Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói:
“Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng
Vô niệm là ngay nơi niệm mà lìa niệm
Vô Trụ là bản tính của con người” [7]
Tức là hành giả đừng để tâm mình bị ô nhiễm tức phan duyên theo “trần cảnh”* tức là ngay lúc niệm của mình thường lìa cách cảnh, đừng để tâm mình lay động chạy theo trần cảnh, niệm là niệm bản thể của tâm “Chân Như” đó là chơn niệm, quán tưởng kỳ danh’ quán tưởng 84 câu chú Đại bi (niệm trong tâm), niệm mãi, niệm hoài đến khi trong óc, rồi trong tâm luôn có niệm, nhưng về cơ thể thì ‘vô niệm.’ Khi đầy tâm rồi thì mỗi cử động của Tâm đều là niệm (niệm nhập tâm) Thế là niệm đến chỗ vô niệm: thì bấy giờ đạt đến trạng thái nhất tâm bất loạn. Đó là chơn niệm vậy
Như vậy, niệm Chú Đại Bi là mình luôn luôn nhớ cái tâm đại từ, đại bi của mình là niệm (Phật tính) trong tứ oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, đều trong chánh niệm đều nghĩ đến Phật, chúng ta không tạo nghiệp bất thiện như không sát sinh giết người hại vật, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không tham, không sân, không si…thì chắc chắn trong cuộc sống của chúng luôn luôn an lạc, không sợ hãi, không gặp chướng ngại (vô ngại).
T. Trí Giải
Chú thích:
[1] Phát Bồ Đề Tâm Luận: Phẩm thứ nhất Khuyến Phá. Bồ tát Thiên thân tạo, Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch Phạn văn ra Hán văn, HT Thích Trí Thủ dịch Hán văn ra Việt văn 1962
[2] Kinh Duy Ma Cật: Phẩm Bồ Tát Hạnh. Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa Dịch giả: Thích Huệ Hưng
[3] Giới thứ năm cấm bán rượu trong Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh
[4] [5] (xem giải thích 4 duyên trong Phát Bồ Đề Tâm Luận: Phẩm thứ hai Phát tâm. Bồ tát Thiên thân tạo, Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch Phạn văn ra Hán văn, HT Thích Trí Thủ dịch Hán văn ra Việt văn 1962
[6] Chánh Pháp và Hạnh Phúc Thích Minh Châu, VNCPHVN, 1996
[7] Theo Kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Định Huệ 4: 無 相 於 相 而
離 相 。無 念 者 於 念 而 不 念。無 住 者。 人 之 本 性。 Vô tướng ư tướng nhi bất ly tướng. Vô niệm giả, ư niệm nhi vô niệm. Vô trụ giả, nhân chi bản tính.
*”Trần cảnh” nghĩa là khác trần là môi trường xung quan, cảnh trần làm nhiễu loạn tâm, đối nghịc với tâm
Chú Đại Bi Thầy Trí Thoát Tụng
Mp3 Chú Đại Bi Thầy Trí Thoát Tụng
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
2. Nam mô a rị da
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
4. Bồ Đề tát đỏa bà da
5. Ma ha tát đỏa bà da
6. Ma ha ca lô ni ca da
7. Án
8. Tát bàn ra phạt duệ
9. Số đát na đát tỏa
10.Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
11.Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà
12.Nam mô na ra cẩn trì
13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế
14.Tát bà a tha đậu du bằng
15.A thệ dựng
16.Tát bà tát đa
17.Na ma bà dà
18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
19.Án. A bà lô hê
20.Lô ca đế
21.Ca ra đế
22.Di hê rị
23.Ma ha bồ đề tát đỏa
24.Tát bà tát bà
25.Ma ra ma ra
26.Ma hê ma hê rị đà dựng
27.Cu lô cu lô yết mông
28.Độ lô đồ lô phạt xà da đế
29.Ma ha phạt xà da đế
30.Đà ra đà ra
31.Địa rị ni
32.Thất Phật ra da
33.Giá ra giá ra
34.Mạ mạ phạt ma ra
35.Mục đế lệ
36.Y hê di hê
37.Thất na thất na a
38 Ra sâm Phật ra xá lợi
39.Phạt sa phạt sâm
40.Phật ra xá da
41.Hô lô hô lô ma ra
42.Hô lô hô lô hê rị
43.Ta ra ta ra
44.Tất rị tất rị
45.Tô rô tô rô
46.Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ
47.Bồ đà dạ bồ đà dạ
48.Di đế rị dạ
49.Na ra cẩn trì
50.Địa rị sắc ni na
51.Bà dạ ma na
52.Ta bà ha
53.Tất đà dạ
54.Ta bà ha
55.Ma ha tất đà dạ
56.Ta bà ha
57.Tất đà dũ nghệ
58.Thất bàn ra dạ
59.Ta bà ha
60.Na ra cẩn trì
61.Ta bà ha
62.Ma ra na ra
63.Ta bà ha
64.Tất ra tăng a mục khê da
65.Ta bà ha
66.Ta bà ma ha a tất đà dạ
67.Ta bà ha
68.Giả kiết ra a tất đà dạ
69.Ta bà ha
70.Ba đà ma kiết tất đà dạ
71.Ta bà ha
72.Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73.Ta bà ha
74.Ma bà rị thắng yết ra dạ
75.Ta bà ha
76.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
77.Nam mô a rị da
78.Bà lô kiết đế
79.Thước bàn ra dạ
80.Ta bà ha
81.Án. Tất điện đô
82.Mạn đà ra
83.Bạt đà gia
84.Ta bà ha.
0 comments